Tóm tắt tổng quan

Báo cáo Đánh giá Chính sách Đầu tư và Tài chính cho Năng lượng Sạch tại Việt Nam nhằm hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực thực hiện chuyển dịch năng lượng sạch. Báo cáo đưa ra một cái nhìn tổng thể về môi trường chính sách hiện tại, nêu bật tiến trình và xác định các cơ hội có thể tăng cường các biện pháp can thiệp chính sách giúp mở rộng quy mô tài chính và đầu tư vào năng lượng sạch. Sau đây là tóm tắt đánh giá và các khuyến nghị chính từ 6 lĩnh vực chính sách tạo thành khung Đánh giá và được trình bày từ chương 2 đến chương 7.

Chính phủ Việt Nam được đánh giá cao trong việc thiết lập các chính sách ưu tiên phát triển năng lượng sạch và gần đây đã có nhiều bước tiến tạo đà thúc đẩy Việt Nam trở thành thị trường năng lượng tái tạo lớn nhất khu vực chỉ trong một vài năm. Các chính sách ưu đãi mạnh mẽ đã tạo động lực phát triển bùng nổ ngành năng lượng mặt trời, đồng thời thu hút nguồn đầu tư vào tiềm năng tài nguyên tái tạo dồi dào của đất nước. Trong những năm tới đây, để duy trì sức tăng trưởng bền vững của thị trường, Việt Nam phải giải quyết được những thách thức mới mang tính trọng yếu, bao gồm việc tích hợp thành công tỷ trọng cao hơn nguồn phát năng lượng tái tạo biến thiên; đa dạng hóa các nguồn vốn huy động; đảm bảo tiếp tục giảm chi phí tiệm cận với thị trường; vừa duy trì một môi trường đầu tư ổn định vừa quản lý quá trình chuyển đổi các chương trình hỗ trợ của chính phủ. Mặc dù theo dự đoán, tốc độ triển khai bùng nổ các dự án năng lượng tái tạo trong hai năm qua sẽ chậm lại, nhưng tổng công suất và thời gian triển khai các nguồn bổ sung năng lượng tái tạo theo dự thảo Quy hoạch Phát triển Điện (QHĐ) VIII (tại thời điểm thực hiện báo cáo này) là không đáng kể cho tới sau năm 2030 và điều này có thể gây bất lợi cho chuỗi cung ứng trong nước, việc làm xanh, niềm tin của nhà đầu tư và giảm chi phí dài hạn. Theo dự thảo QHĐ VIII, rủi ro liên quan đến nguồn và chi phí tài chính cho các nhà máy điện than mới cũng như đảm bảo đúng tiến độ triển khai các dự án điện khí LNG sẽ là một nguyên nhân tiềm ẩn gây mất an ninh năng lượng. Năng lực của các nhà máy nhiệt điện mới xây dựng có sử dụng nhiên liệu nhập khẩu để giảm thiểu rủi ro về giá nhiên liệu cũng sẽ là yếu tố rất quan trọng trong bối cảnh mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu tăng lên. Tỷ lệ nguồn cung phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu sẽ đạt mức 50% vào năm 2035 so với mức 15% vào năm 2021. Việc cho phép các dự án thống nhất các điều khoản về hợp đồng cung cấp nhiên liệu dài hạn hơn có thể sẽ phụ thuộc vào các điều khoản của hợp đồng như đảm bảo bao tiêu và cơ chế thuế nới lỏng mà từ trước tới nay chưa được EVN sẵn sàng chấp thuận. Mặc dù có tiềm năng kinh tế to lớn, song thị trường tiết kiệm năng lượng hiệu quả hầu như chưa được khai thác và cần có các chính sách ưu đãi, các quy định và mô hình kinh doanh mới mạnh mẽ hơn để thúc đẩy thị trường. Trong bối cảnh ngày càng có nhiều quốc gia và doanh nghiệp đưa ra cam kết mạnh mẽ cho các hành động vì khí hậu và phát triển bền vững, Việt Nam sẽ cần phải tiếp tục quá trình chuyển dịch năng lượng sạch nếu muốn duy trì vị thế hiện tại là điểm đến hàng đầu cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Việt Nam vẫn đang tiếp tục củng cố tham vọng về năng lượng tái tạo cùng với các chính sách ưu tiên sử dụng năng lượng hiệu quả như đã nêu trong dự thảo QHĐ VIII, Chương trình quốc gia về Sử dụng Năng lượng Tiết kiệm và Hiệu quả III (VNEEP III) và Kế hoạch Đóng góp do Quốc gia tự quyết định bản cập nhật. Tuy nhiên, quá trình lập quy hoạch thiếu linh hoạt sẽ làm hạn chế khả năng ứng phó với các thay đổi nhanh chóng của thị trường năng lượng sạch và các rủi ro phát sinh trong quá trình triển khai. Công tác giám sát và quản trị hiệu quả là rất quan trọng để đảm bảo rằng hệ thống điện trong tương lai của Việt Nam phát triển một cách phù hợp với các mục tiêu chính sách tổng thể của quốc gia.

Chính sách ngành năng lượng của Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể nhằm thu hút khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn, áp dụng các nguyên tắc dựa trên thị trường và gần đây là ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo ngoài thủy điện và các biện pháp hiệu quả năng lượng. Chính phủ cần nhanh chóng cải thiện môi trường pháp lý để đảm bảo các cơ chế khuyến khích cũng như các quy định pháp lý có thể thúc đẩy các mô hình kinh doanh phù hợp với kế hoạch phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả, bao gồm hoạt động đấu giá dịch vụ phụ trợ cân bằng hệ thống và tăng tính linh hoạt nguồn cung và cầu.

Khi thị trường năng lượng tái tạo phát triển, chính phủ Việt Nam sẽ cần tiếp tục hỗ trợ đảm bảo cạnh tranh công bằng và tiếp cận thị trường bình đẳng giữa các đơn vị phát triển tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Trong giai đoạn sắp tới, các hoạt động như hình thành khuôn khổ đấu thầu cạnh tranh các dự án năng lượng tái tạo, áp dụng hoàn toàn thị trường bán buôn, tiếp tục cổ phần hóa các công ty phát điện thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và tách bạch Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (NLDC) sẽ là những dấu mốc quan trọng để tạo ra một sân chơi bình đẳng. Việt Nam được hưởng lợi từ môi trường đặc biệt cởi mở đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và quá trình chuyển dịch năng lượng sạch của đất nước có thể giúp thu hút thêm sự quan tâm của các nhà đầu tư và hỗ trợ chính phủ thực hiện tham vọng trở thành trung tâm sản xuất hàng đầu (khu vực ASEAN).

Các hoạt động mạnh mẽ để giảm trợ cấp trực tiếp cho nhiên liệu hóa thạch cùng với các kế hoạch phát triển thị trường carbon trong nước sẽ giúp đảm bảo nguồn vốn được dịch chuyển thúc đẩy tham vọng tăng trưởng xanh của đất nước. Cơ chế thuế ưu đãi với việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án năng lượng tái tạo và các đơn vị sản xuất thiết bị tiết kiệm năng lượng cũng đã mang lại các ưu đãi quan trọng. Tuy nhiên, môi trường pháp lý phức tạp và các thủ tục hành chính có thể là thách thức trong quá trình định hướng, thu hút, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Việt Nam cần mở rộng quy mô tài chính để đáp ứng các mục tiêu chuyển dịch năng lượng sạch, bao gồm cả nguồn tài chính công và tư nhân trong nước và quốc tế. Các chính sách trong đề án phát triển ngân hàng xanh do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện là đáng ghi nhận bởi các chính sách này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện hỗ trợ tài chính trong nước. Trong hai năm qua, hoạt động mở rộng phát triển năng lượng mặt trời diễn ra nhanh chóng phần lớn là do các ngân hàng trong nước tài trợ. Mặc dù Việt Nam có nhu cầu lớn về tài trợ vốn cho các dự án năng lượng sạch nhưng tình trạng thiếu khả năng tiếp cận nguồn vốn dài hạn sẽ hạn chế tiềm năng tăng trưởng trong tương lai và việc không có nguồn tài chính không truy đòi cho dự án cũng sẽ hạn chế khả năng tài chính của đơn vị phát triển.

Việt Nam cần có kế hoạch kỹ càng và dài hạn để quản lý tốt hơn giai đoạn xử lý tấm pin quang điện cuối chu kỳ dự án để tránh những tác động tiêu cực đến môi trường và làm suy giảm niềm tin của công chúng vào quá trình chuyển dịch năng lượng. Các sáng kiến về tích hợp lưới điện giữa các quốc gia trong khu vực có thể cho phép tích hợp năng lượng tái tạo biến thiên với chi phí hiệu quả. Cho đến nay, các sáng kiến tuy có tiến triển chậm nhưng việc tập trung đổi mới để vượt qua các thách thức trong thiết lập thương mại đa phương cần được ưu tiên. Hỗ trợ có mục tiêu cho đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng sạch sẽ là động lực quan trọng giúp giảm chi phí khi điều kiện tại địa phương đòi hỏi nội địa hóa các giải pháp kỹ thuật. Để thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng sạch toàn diện, cộng đồng phải được hỗ trợ để hưởng lợi từ việc đầu tư năng lượng sạch tại địa phương mà họ đang sinh sống bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận việc làm xanh và tăng cơ hội cho nữ doanh nhân.

Siêu dữ liệu (metadata), pháp lý và quyền

Tài liệu này và các bản đồ được sử dụng sẽ không gây phương hại tới thực trạng hay chủ quyền đối với bất cứ vùng lãnh thổ nào, cũng như sẽ không ảnh hưởng tới việc phân định các đường biên giới/ranh giới quốc tế, và tên gọi của bất cứ vùng lãnh thổ, thành phố hay khu vực nào. Việc trích xuất từ các báo cáo có thể phải đi kèm cùng với các tuyên bố miễn trừ trách nhiệm bổ sung, đã từng được nêu trong báo cáo hoàn chỉnh truy cập tại đường link cung cấp.

© OECD 2021

Việc sử dụng tài liệu này, dù dưới dạng bản in hay kỹ thuật số, phải tuân theo các Điều khoản và Điều kiện đăng tải trên http://www.oecd.org/termsandconditions.