11. Quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan và hoạt động kinh doanh có trách nhiệm

Chính phủ, cơ quan sở hữu và bản thân DNNN phải công nhận và tôn trọng quyền của các bên có quyền lợi liên quan được pháp luật công nhận hoặc quy định trong các thỏa thuận chung

Quyền và nghĩa vụ của người lao động, tổ chức đại diện của người lao động và người sử dụng lao động được thực hiện theo các quy định về lao động - đó là Bộ luật Lao động (năm 2019, có hiệu lực năm 2021) và các quy định hỗ trợ (Nghị định 145/2020/NĐ-CP) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động. Có hai nghị định hỗ trợ cho từng công ty TNHH một thành viên do nhà nước sở hữu toàn bộ và các DNNN do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần:

  • Nghị định 51/2016/NĐ-CP quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

  • Nghị định 53/2016/NĐ-CP quy định về lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước, quy định cụ thể về chế độ tiền lương, tiền thưởng đối với người lao động, cán bộ lãnh đạo, người đại diện phần vốn Nhà nước và không phải người đại diện phần vốn Nhà nước.

Bộ luật Lao động cho phép người lao động thành lập, gia nhập hoặc tham gia vào các hoạt động của tổ chức đại diện cho người lao động và “thực hiện” hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc văn bản tương tự, trong số những hoạt động khác. Các thỏa ước lao động tập thể này, cũng như các quy định lao động nội bộ của các DNNN, cũng hỗ trợ cho bộ luật lao động.

Công đoàn là tổ chức phổ biến. Tổ chức này có thể được tham vấn về nhiều vấn đề, chẳng hạn như quy định tiền lương, như trường hợp của Công đoàn VNR - một tổ chức chính trị-xã hội được pháp luật thành lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động với tư cách là bên thứ ba. Vinacomin cũng ký thỏa ước lao động tập thể với tổ chức công đoàn đó.

Quyền của người lao động không bao gồm tham gia vào hội đồng quản trị hoặc các cuộc họp cổ đông đối với DNNN do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần. Quyền của chủ nợ, người tiêu dùng và đối tác kinh doanh cũng được quy định trong nhiều bộ luật.

  • Quyền của chủ nợ được quy định trong Bộ luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp nhà nước. Các quyền này chủ yếu liên quan đến trách nhiệm của các công ty - ở đây là các DNNN - về việc thông báo cho các chủ nợ về các thông tin liên quan, chẳng hạn như về nghĩa vụ trả nợ trong trường hợp giải thể hoặc xử lý cổ phần được mua lại.

  • Quyền của người tiêu dùng được nêu trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Luật số 59/2020/QH12). Quyền của người tiêu dùng bao gồm được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức hoặc cá nhân kinh doanh hàng hóa hoặc dịch vụ, nội dung giao dịch; được góp ý với tổ chức hoặc cá nhân kinh doanh hàng hóa và/hoặc dịch vụ về phạm vi hoặc các vấn đề có liên quan, được quyền khiếu nại, tố giác hoặc khởi kiện.

  • Quyền của những người tham gia hợp đồng thương mại được quy định trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11) quy định các điều khoản cơ bản của hợp đồng thương mại, bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.

Nhóm công tác OECD chưa nắm việc áp dụng các luật này trên thực tế - tức là liệu các DNNN có thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với người lao động, người tiêu dùng, chủ nợ và đối tác kinh doanh hay không. Ít nhất, mối quan tâm của đoàn công tác OECD về việc tiết lộ thông tin cho công chúng, được thảo luận trong chương sau về tính minh bạch và công bố thông tin, cho thấy ít nhất có một số quyền liên quan đến quyền tiếp cận thông tin của các bên có quyền lợi liên quan còn chưa được tuân thủ đầy đủ.

B. DNNN niêm yết hoặc DNNN lớn phải báo cáo về mối quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan, bao gồm cả người lao động, chủ nợ, và các cộng đồng chịu ảnh hưởng, trong trường hợp phù hợp và khả thi

Các công ty niêm yết trên một trong hai sở giao dịch chứng khoán quốc gia của Việt Nam1 phải công bố thông tin về “môi trường doanh nghiệp, xã hội và cộng đồng bền vững”2, phù hợp với Hướng dẫn công bố thông tin về Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) do cơ quan quản lý thị trường của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội xuất bản. Theo Luật Chứng khoán (Luật số 62/2010/QH12), các DNNN niêm yết trên sàn chứng khoán bắt buộc phải công bố thông tin.

Mặc dù các DNNN niêm yết ở Việt Nam tuân thủ quy định này trong Hướng dẫn dành cho DNNN, thì có vẻ như các DNNN lớn - dù là công ty TNHH một thành viên hay công ty cổ phần - không cần tuân thủ. Các DNNN cổ phần và các DNNN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ không phải báo cáo về quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan, cũng như không cần công bố thông tin về môi trường và xã hội, và cũng không có tiêu chuẩn quốc tế được khuyến khích áp dụng trong vấn đề này. Các công ty TNHH một thành viên phải báo cáo định kỳ trên trang thông tin điện tử của công ty về việc “thực hiện công vụ được giao theo kế hoạch hoặc đấu thầu (nếu có) và trách nhiệm xã hội khác” theo Luật Doanh nghiệp (được hỗ trợ bởi Nghị định 47). Công ty cổ phần và Công ty TNHH hai thành viên trở lên không phải tuân thủ yêu cầu công bố thông tin cụ thể này. Những thông tin công bố này có thể bao gồm thông tin liên quan đến mối quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan, nhưng không một DNNN nào tham gia trả lời bảng câu hỏi hoặc đoàn khảo sát thực tế nào có thể chỉ ra những thông tin đó ngay cả khi tự nguyện.

Theo Luật Doanh nghiệp, hội đồng quản trị và thành viên ban điều hành của các DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ có trách nhiệm thông báo cho công ty về cổ phần hoặc phần vốn góp thuộc sở hữu của họ hoặc những người có liên quan đến họ và công ty phải công bố thông tin này, cũng như công bố thông tin về các hợp đồng và giao dịch giữa họ và những người có liên quan.

C. HĐQT của DNNN cần xây dựng, thực hiện, giám sát và truyền thông về các chốt kiểm soát nội bộ, quy tắc đạo đức và các chương trình hoặc biện pháp tuân thủ, bao gồm những biện pháp để ngăn chặn gian lận và tham nhũng. Các quy tắc đạo đức kinh doanh này cần dựa trên chuẩn mực quốc gia, phù hợp với các cam kết quốc tế và áp dụng cho DNNN lẫn các chi nhánh của doanh nghiệp đó

Các DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ ở Việt Nam không bắt buộc phải xây dựng các chốt kiểm soát, quy tắc đạo đức cũng như các chương trình hoặc biện pháp tuân thủ cụ thể. Các DNNN - bao gồm cả công ty cổ phần và công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ - báo cáo rằng họ đã xây dựng các chương trình phòng chống tham nhũng và lãng phí, nhưng điều này không được quy định rõ ràng trong các điều luật. Thay vào đó, chúng ta hiểu rằng các DNNN đang đề cập đến yêu cầu về kiểm toán nội bộ và các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) về tính minh bạch và hành vi có đạo đức. Tuy nhiên, các DNNN, hoặc trong một số trường hợp là các quan chức nhà nước trong các DNNN, phải tuân thủ các quy định nhất định đóng vai trò như các biện pháp kiểm soát mà khi hoạt động tốt sẽ góp phần phòng chống tham nhũng và gian lận.

Luật Phòng, chống tham nhũng, được mô tả là áp dụng cho các DNNN trong Phần I Chương 5, yêu cầu đại diện nhà nước trong các DNNN - được coi là “người giữ chức vụ” - phải tuân thủ bộ quy tắc ứng xử trong khu vực nhà nước (Điều 20). Luật này yêu cầu một doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ (không chỉ riêng những người giữ chức vụ) phải tuân thủ chính sách về quà tặng và quản lý xung đột lợi ích. Các DNNN dNNN do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần ban hành, thực hiện “quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, ngăn chặn hành vi tham nhũng và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng” (Điều 79, Luật PCTN). Do đó, các Công ty TNHH hai thành viên trở lên và Công ty cổ phần sẽ có một Bộ Quy tắc ứng xử áp dụng cho toàn bộ công ty, thay vì chỉ giới hạn đối với các cá nhân trong công ty như trong trường hợp của các DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ.

Bất kỳ quan chức nhà nước nào, dù là trong các DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ hay do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần, cũng như cấp phó phòng trở lên trong các công ty do nhà nước sở hữu toàn bộ đều phải kê khai tài sản và thu nhập. Ngoài ra, các kỳ vọng về hành vi đạo đức của các thành viên HĐQT cũng có thể được lấy từ phần nghĩa vụ của thành viên HĐQT trong Luật Doanh nghiệp, đó là, ngoài những nghĩa vụ khác, thực hiện các chức năng của mình một cách trung thực, cẩn trọng và theo cách tốt nhất để đảm bảo lợi ích hợp pháp theo luật công ty tối đa, trung thành với lợi ích của công ty, không lạm dụng chức vụ, quyền hạn, sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh và tài sản khác của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Các đánh giá hằng năm của HĐQT, cùng với xếp hạng các cá nhân, bao gồm các tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống. Có thể tìm thêm thông tin về đánh giá của HĐQT trong chương 13.

Do đó, khuôn khổ pháp lý và quy định yêu cầu các DNNN hoặc ít nhất là đại diện của DNNN phải tuân thủ các biện pháp và chốt kiểm soát liên quan đến phòng, chống tham nhũng. Cùng với yêu cầu mới áp dụng cho tất cả các DNNN là phải xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ, còn có các yếu tố của thông lệ tốt quốc tế được đan xen trong luật. Tuy nhiên, việc đạt được hiệu quả của các chốt kiểm soát nội bộ riêng lẻ trong thực tế còn gặp phải nhiều thách thức, vì chúng được gắn vào một cấu trúc kiểm soát công ty vô cùng phức tạp và khó hiểu, kết hợp giữa các biện pháp kiểm soát của nhà nước và các thông lệ kinh doanh.

Có ba lý do chính dẫn đến cơ cấu kiểm soát (nội bộ) tổng thể kém hiệu quả và từ đó cũng dẫn đến sự kém hiệu quả của các biện pháp phòng chống tham nhũng và gian lận. Thứ nhất, có nhiều cơ quan tham gia vào hoạt động “kiểm soát” trong các DNNN khiến cơ cấu kiểm soát DNNN của Việt Nam rất độc đáo và phức tạp. BKS dường như có quyền kiểm soát đối với toàn bộ công ty và ban lãnh đạo công ty, “Ban Kiểm soát nội bộ” có quyền kiểm soát đối với các hoạt động của DNNN (chức năng kiểm soát nội bộ) và “Tổ chức Đảng” có thể kết hợp cả hai chức năng này. Ngoài ra, còn có các kiểm soát viên bên ngoài. Thứ hai, còn có những lo ngại về việc thực thi luật pháp hiện hành do các mối quan hệ không chính thức và cấu trúc quyền lực tồn tại trong thực tế. Thứ ba, dường như có sự lẫn lộn ở một mức độ nào đó về vai trò và trách nhiệm của nhiều cơ quan/đơn vị kiểm soát về vấn đề kiểm soát nội bộ. Khi được hỏi về các yêu cầu xung quanh cơ cấu kiểm soát và quản lý rủi ro rộng hơn của các DNNN nói chung, các bên có quyền lợi liên quan ở cả cấp nhà nước và cấp công ty đều quan tâm đầu tiên đến và đôi khi chỉ quan tâm đến công tác kiểm toán nội bộ. Nội dung kiểm toán nội bộ sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong phần 7.10, nhưng ở đây cần lưu ý rằng việc phân chia trách nhiệm về kiểm soát nội bộ, quy tắc đạo đức và tuân thủ trong DNNN giữa Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị (HĐQT), BKS, “Uỷ ban Kiểm soát nội bộ” và kiểm toán viên nội bộ còn chưa rõ ràng không chỉ trong pháp luật mà trong thực tế cũng vậy. Những thách thức này được trình bày chi tiết dưới đây:

Ban Kiểm soát (BKS) - còn được gọi là “Kiểm soát viên của công ty” - bao gồm các viên chức, công chức do CMSC bổ nhiệm và chịu trách nhiệm quản lý HĐTV của DNNN (Nghị định số 10/2019/NĐ-CP, Điều 10, Khoản 2). Mặc dù đóng vai trò “tương đương” với HĐQT về mặt pháp lý và có trách nhiệm giám sát HĐQT, nhưng một số bên có quyền lợi liên quan còn nghi ngờ về hiệu quả của BKS trong thực tế, một phần có thể là do các công chức được CMSC của BKS bổ nhiệm có nhiệm vụ giám sát các thành viên nhiều quyền lực của HĐQT, trong đó có thể bao gồm cả Tổng giám đốc và các Đảng viên. Theo một bên có quyền lợi liên quan, nếu BKS phát hiện sai phạm hoặc nghi ngờ xảy ra sự việc bất thường thì “họ không phải là người báo cáo để ngăn chặn sự việc”, thay vào đó, trên thực tế, họ sẽ làm theo chỉ dẫn của HĐTV và có thể là Tổ chức Đảng (xem dưới đây).

Các DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ có một cơ quan kiểm soát nội bộ chịu trách nhiệm kiểm soát nội bộ trong DNNN. Cơ quan này có nhiều tên: “Ủy ban Kiểm toán và Kiểm tra”, “Ban hoặc Ủy ban Kiểm soát nội bộ”, “Ủy ban Kiểm toán nội bộ” và “Bộ phận Kiểm toán nội bộ và Giám sát tài chính”, (sau đây sẽ được gọi đơn giản là “Ban Kiểm soát nội bộ”). Mặc dù tên này có thể gây hiểu lầm, nhưng đây là cơ quan trực thuộc HĐTV. Các thành viên của Ban Kiểm soát nội bộ sẽ do HĐTV tuyển dụng và sa thải. Trong hầu hết các trường hợp, thường thì trưởng bộ phận kiểm toán nội bộ, nếu có, sẽ có trong “Ban Kiểm soát nội bộ”. Theo các thông lệ tốt, người đứng đầu các đơn vị hoặc bộ phận kiểm toán nội bộ có quyền tiếp xúc trực tiếp với HĐTV (để bảo vệ quyền tự chủ của HĐTV). Mặc dù các kiểm toán viên nội bộ dường như có thể tiếp xúc với HĐTV thông qua Ban Kiểm soát nội bộ, nhưng có vẻ như Ban Kiểm soát nội bộ có vai trò phụ thuộc hơn so với vai trò mà Ủy ban Kiểm toán độc lập giao cho và do đó đặt ra nghi ngờ về tính tự chủ của kiểm toán nội bộ.

Báo cáo năm 2019 do VCCI và Chính phủ Vương quốc Anh xuất bản, Việc sử dụng Kiểm soát nội bộ và Bộ Quy tắc ứng xử của các công ty tại Việt Nam cho thấy ban kiểm soát nội bộ thường được bố trí nhân sự dựa trên cấu trúc quyền lực và có một số thành viên đến từ công ty mẹ và thiếu kiến ​​thức về hoạt động của công ty. Báo cáo này cũng cho biết có sự dàn xếp trong các cuộc kiểm tra mà cơ quan tiến hành, trong đó các thanh tra và những người bị kiểm tra đã thoả thuận trước về nội dung báo cáo. Trên thực tế, một bên có quyền lợi liên quan đã thông báo cho OECD rằng Ban Kiểm soát nội bộ thường phải tuân theo các chỉ thị hoặc hướng dẫn đặc biệt của các thành viên HĐTV, dẫn đến phá bỏ các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ chuẩn. Họ nhắc lại rằng việc tăng cường kiểm toán nội bộ và kiểm soát nội bộ trên thực tế là một thách thức lớn.

Các công ty cổ phần có thể chọn thành lập Ủy ban Kiểm toán thay vì BKS do CMSC bổ nhiệm (như trên). Một số bên có quyền lợi liên quan cho biết việc này sẽ giúp đạt được mức độ đảm bảo cao hơn đối với các hoạt động kiểm soát nội bộ của công ty - một trong những lý do là cấu trúc kiểm soát trở nên đơn giản hơn và cho phép các luồng báo cáo rõ ràng hơn trong nội bộ công ty.

Có vẻ như hầu hết, nếu không nói là tất cả, các DNNN đều có Tổ chức Đảng/Uỷ ban/Chi bộ. Không có gì lạ khi TGĐ hoặc Chủ tịch HĐQT là Đảng viên, nhưng “Tổ chức Đảng” cũng có thể có mặt trong các chức năng và vai trò khác nhau của công ty. Nhiều bên có quyền lợi liên quan cho rằng sự có mặt của Đảng viên Đảng Cộng sản trong các DNNN sẽ mang lại sự “kiểm tra và cân bằng” khá hiệu quả trong công ty, ngay cả đối với HĐQT hay ban điều hành - mặc dù điều này còn hạn chế khi các Đảng viên đảm nhiệm vị trí Chủ tịch và/hoặc TGĐ.

Theo PVN, “Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam” trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. Thường xuyên chỉ đạo phòng chống lãng phí, phòng chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Ghi chép các hành động về phòng chống tham ô lãng phí, thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng. Tăng cường cải cách hành vi, thường xuyên cải tiến quy trình và quy chế nội bộ trong quá trình giải quyết công việc theo hướng chặt chẽ, tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm phòng chống tham ô lãng phí, nhất là trong quản lý, mua sắm hàng hóa, dịch vụ và lựa chọn nhà cung cấp.

Bỏ qua mối lo ngại đáng kể về sự can thiệp chính trị vào hoạt động của DNNN, có vẻ như chức năng của Đảng đã lấp đầy được khoảng trống trong cấu trúc rủi ro và kiểm soát, cũng như thúc đẩy hành vi có đạo đức, hoặc mang lại lý do cho HĐTV/HĐQT, BKS, Ban Kiểm soát nội bộ hoặc kiểm toán nội bộ để từ bỏ ít nhất là một phần vai trò thông thường trong lực lượng chính trị nội bộ. Theo các thông lệ tốt, hội đồng quản trị và ban điều hành có trách nhiệm quản lý và kiểm soát rủi ro và bộ phận hoặc đơn vị kiểm toán độc lập đóng vai trò giám sát và đảm bảo, báo cáo cho các thành viên độc lập của HĐQT. Ở Việt Nam, tất cả các biện pháp đều có hạn chế đáng kể là có thể cản trở khả năng của DNNN trong việc quản lý rủi ro (tham nhũng và các rủi ro khác) đối với các mục tiêu của DNNN.

Hiện có một hệ thống trách nhiệm giải trình rộng hơn để giám sát các DNNN - bao gồm kiểm toán độc lập bên ngoài, kiểm toán nhà nước và Thanh tra nhà nước. Theo chức năng nhiệm vụ, kiểm toán viên độc lập bên ngoài không có vai trò tìm kiếm các hoạt động tham nhũng, mà có thể đóng vai trò nổi bật hơn trong việc phát hiện các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Kiểm toán nhà nước (KTNN) trước đây đã nêu ra những bất thường mà sau đó tiếp tục được điều tra bởi các cơ quan chức năng thích hợp, như Thanh tra Nhà nước, cơ quan chịu trách nhiệm giám sát các DNNN. Thông thường, các DNNN không bị giám sát chặt chẽ như ở các nước khác, nhưng có những trường hợp truyền thông đã chú ý đến một số vụ việc tham nhũng hoặc bất thường trong DNNN.

Các DNNN Việt Nam và những DNNN thực hiện quyền sở hữu nhà nước được hưởng lợi từ sự hiểu biết ngày càng sâu rộng về các khái niệm kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro - cũng như mối quan hệ giữa các khái niệm này. Nhiều bên có quyền lợi liên quan chỉ nhắc đến kiểm toán nội bộ khi được hỏi về kiểm soát nội bộ theo cách rộng hơn và rất ít bên có quyền lợi liên quan có thể cung cấp thông tin chi tiết về quản trị rủi ro - ở mức độ chi tiết thậm chí còn ám chỉ hoàn toàn không có các thông lệ về quản lý rủi ro. Liên quan đến vấn đề này, OECD nhận được báo cáo rằng rủi ro tham nhũng ở các DNNN vẫn cao hơn so với các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam, một phần là do thiếu cơ chế quản lý và kiểm soát rủi ro cũng như do kiến ​​thức và năng lực ở cấp HĐQT - với bằng chứng là một số vụ tham nhũng gần đây. Một phần của thách thức bắt nguồn từ việc HĐQT của DNNN còn thiếu khả năng quản lý rủi ro khi ra quyết định vì lợi ích tốt nhất của công ty, điều này là do hạn chế về khả năng đưa ra quyết định tự chủ của HĐQT - do nhiều quyết định phải thông qua nhiều tầng quyết định (thường) bao gồm nhiều cơ quan nhà nước. Điều này sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương 13. HĐQT không có quyền phê chuẩn hoặc đưa ra các quyết định quan trọng ở cấp HĐQT, ở đây đại diện phần vốn nhà nước sẽ có quyền quyết định. Đại diện này có thể có lợi ích cạnh tranh hoặc lợi ích cá nhân trong các quyết định đó và trong một số trường hợp điều này dẫn đến việc bòn rút tiền từ các DNNN để làm giàu bất chính cho cá nhân hoặc cho các bên liên quan. Các bên có quyền lợi liên quan cho rằng hoạt động quản lý rủi ro trong các DNNN tốt hơn ở các DNNN cổ phần và đặc biệt là các DNNN niêm yết, đồng thời vẫn tuân thủ luật chứng khoán.

D. DNNN cần tuân thủ chuẩn mực cao về thực hiện hoạt động kinh doanh có trách nhiệm. Những kỳ vọng của chính phủ liên quan đến nội dung này phải được công bố công khai và cơ chế cho việc thực hiện phải được thiết lập rõ ràng

Các DNNN do nhà nước sở hữu toàn bộ được yêu cầu công bố thông tin định kỳ về công vụ (có nghĩa là các mục tiêu chính sách) cũng như các “trách nhiệm xã hội”. Điều này không áp dụng cho các Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần do nhà đầu tư bên ngoài sở hữu một phần. Nghị định về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước (Nghị định số 81/2015/NĐ-CP) có trước Luật Doanh nghiệp sửa đổi quy định chi tiết về bản chất của hoạt động báo cáo này:

  • Doanh nghiệp phải xây dựng báo cáo kết quả thực hiện công vụ và trách nhiệm xã hội (nếu có) theo các nội dung quy định tại Phụ lục VI kèm theo Nghị định này. Doanh nghiệp thực hiện công bố trên cổng hoặc trang thông tin điện tử của doanh nghiệp báo cáo kết quả thực hiện công vụ và trách nhiệm xã hội khác (nếu có) đồng thời gửi báo cáo tới cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và Bộ KH-ĐT để công bố theo quy định. Thời hạn công bố và gửi báo cáo cho cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và Bộ Kế hoạch và Đầu tư không muộn hơn ngày 20 tháng 6 của năm liền sau năm báo cáo.

  • Cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước thực hiện công bố báo cáo kết quả thực hiện công vụ và trách nhiệm xã hội khác (nếu có) trên cổng hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan trong vòng năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp.

  • Bộ KH-ĐT thực hiện công bố báo cáo kết quả thực hiện công vụ và trách nhiệm xã hội khác (nếu có) trên cổng thông tin doanh nghiệp của Bộ (http://www.business.gov.vn) trong vòng năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp.

Trách nhiệm xã hội bao gồm trách nhiệm của DNNN về: bảo vệ môi trường; đóng góp cho cộng đồng xã hội và đối với nhà cung cấp; bảo đảm lợi ích và sự an toàn của người tiêu dùng; duy trì quan hệ tốt với người lao động và bảo đảm lợi ích cho cổ đông và người lao động trong doanh nghiệp. Một số trách nhiệm trong số đó liên quan đến các luật nêu trên về quyền của người tiêu dùng, người lao động và chủ nợ.

OECD hiểu rằng các DNNN theo đuổi các mục tiêu này và có các trách nhiệm này đang công bố “báo cáo” tích hợp vào báo cáo thường niên hoặc dưới dạng “báo cáo RBC theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh” thường niên riêng biệt. Tuy nhiên, một bên có quyền lợi liên quan cho biết “Báo cáo RBC theo lĩnh vực kinh doanh” trên thực tế là báo cáo không bắt buộc. Việc yêu cầu này nhắc đến từ “nếu có” sẽ cho phép loại trừ các DNNN không có ý định thực hiện công vụ hoặc trách nhiệm xã hội

Nhóm OECD hiểu rằng chủ sở hữu nhà nước không đặt ra kỳ vọng rõ ràng về việc thực hiện hoạt động kinh doanh có trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là các DNNN phải báo cáo nếu họ thực hiện các mục tiêu chính sách công hoặc có “các trách nhiệm xã hội khác” - nhưng nhóm công tác không rõ liệu các trách nhiệm “khác” đó nằm trong khuôn khổ các mục tiêu tổng thể của DNNN hay là các mục tiêu tự nguyện. Chỉ những DNNN niêm yết mới phải tuân thủ yêu cầu công bố thông tin liên quan đến ESG, như đã đề cập ở trên3.

Các DNNN tham gia vào quá trình rà soát đã chỉ ra một kỳ vọng lâu dài và ngầm hiểu hoặc “hiểu rõ” rằng các DNNN có đóng góp vào “quỹ phúc lợi xã hội”. Một bên có quyền lợi liên quan được phỏng vấn đã báo cáo với OECD rằng, theo ông, các DNNN theo đuổi hoạt động kinh doanh có trách nhiệm “không phải vì họ chịu áp lực phải thực hiện, mà chỉ đơn giản đó là những gì họ làm”. Bộ KH-ĐT đã báo cáo với OECD rằng các DNNN có truyền thống lâu đời trong việc giúp đỡ những người dễ bị tổn thương hằng năm. Về phần mình, công ty đường sắt quốc gia VNR có những quy định cụ thể cho từng công ty để hỗ trợ các hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo - được coi là các mục tiêu chính sách công - cũng như hỗ trợ những người khó khăn (ví dụ: đồng bào gặp lũ lụt). Bộ KH-ĐT đã đánh dấu bước tiến về đóng góp của các DNNN cho xã hội thông qua đại dịch Covid-19, cho thấy các DNNN đã có đóng góp đáng kể vào các chức năng và dịch vụ của chính phủ.

Nhiều bên có quyền lợi liên quan đề cập đến cam kết “Quy hoạch tổng thể” tái cơ cấu và cơ hội cho bảy DNNN có liên quan đóng vai trò dẫn đầu và truyền cảm hứng cho các thành phần kinh tế khác, từ đó đóng góp vào nền kinh tế để trở nên lớn mạnh hơn. OECD nhận được báo cáo rằng việc này có thể bao gồm làm việc với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để trở thành đối tác đổi mới sáng tạo, hoạt động này được coi là một “trách nhiệm xã hội”.

Việt Nam tiếp tục được hưởng lợi từ việc triển khai chính thức và tăng độ nhất quán về đóng góp của DNNN vào RBC, như một phương tiện để thu hút đầu tư. Tại thời điểm viết bài, còn một số hạn chế do do chủ sở hữu nhà nước không đưa ra yêu cầu rõ ràng và những kẽ hở trong yêu cầu công bố thông tin. Các yêu cầu công bố thông tin (i) cho phép loại trừ các DNNN không xác định là có mục tiêu công ích hoặc “các trách nhiệm xã hội khác” và (ii) không áp dụng cho các Công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc Công ty cổ phần. Do đó, nhóm công tác suy luận rằng các DNNN thực hiện hoạt động kinh doanh có trách nhiệm có thiện chí nhưng tốt nhất là thực hiện từng phần. Vẫn còn khả năng đạt được tính nhất quán cao hơn giữa các DNNN, từ đó có thể gửi tín hiệu tích cực đến các nhà đầu tư.

E. DNNN không nên bị sử dụng như phương tiện để tài trợ các hoạt động chính trị. Bản thân DNNN không nên đóng góp cho các chiến dịch vận động chính trị

Trong luật không có nội dung nào đề cập đến việc tài trợ các hoạt động chính trị vì Đảng Cộng sản được tài trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước (cũng như các hoạt động của các quan chức của Đảng). Hầu như không có chiến dịch chính trị hoặc hoạt động gây quỹ nào được tổ chức. Do nguồn tài trợ đến từ ngân sách nhà nước, pháp luật không công nhận sự đóng góp của các cá nhân hoặc tổ chức. Mặc dù vậy, các DNNN báo cáo rằng trên thực tế, DNNN không bị sử dụng như phương tiện để tài trợ các hoạt động chính trị. Tuy nhiên, sự hiện diện của “Tổ chức Đảng” trong các DNNN thể hiện mối quan hệ đan xen giữa DNNN và Đảng vượt ra ngoài các giới hạn mà các quy định tài chính của các đảng phái chính trị có ý định thiết lập giữa chính trường và DNNN. Việc xây dựng chiến lược và quản trị của doanh nghiệp thường dựa trên định hướng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.

Ghi chú

← 1. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX). Thị trường Công ty Đại chúng Chưa niêm yết (UPCoM) được gộp vào HNX, là phân khúc niêm yết chính và ưu tiên của các DNNN mới được cổ phần hóa để tham gia thị trường chứng khoán, với mục đích chung là chuẩn bị chuyển sang HOSE hoặc HNSX sau này.

← 2. Thông tư 155/2015/TT-BTC (ngày 6/10/2015) về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.

← 3. Các DNNN niêm yết phải công bố thông tin về “môi trường doanh nghiệp, xã hội và cộng đồng bền vững” theo hướng dẫn của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội về công bố thông tin về Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG).

Siêu dữ liệu (metadata), pháp lý và quyền

Tài liệu này và các bản đồ được sử dụng sẽ không gây phương hại tới thực trạng hay chủ quyền đối với bất cứ vùng lãnh thổ nào, cũng như sẽ không ảnh hưởng tới việc phân định các đường biên giới/ranh giới quốc tế, và tên gọi của bất cứ vùng lãnh thổ, thành phố hay khu vực nào. Việc trích xuất từ các báo cáo có thể phải đi kèm cùng với các tuyên bố miễn trừ trách nhiệm bổ sung, đã từng được nêu trong báo cáo hoàn chỉnh truy cập tại đường link cung cấp.

© OECD 2022

Việc sử dụng tài liệu này, dù dưới dạng bản in hay kỹ thuật số, phải tuân theo các Điều khoản và Điều kiện đăng tải trên https://www.oecd.org/termsandconditions.